Sự nghiệp văn nghệ Văn_Cao

Âm nhạc

So với hai nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng khác là Phạm Duy khoảng 1000 ca khúc và Trịnh Công Sơn với 600 ca khúc, Văn Cao sáng tác không nhiều. Sự nghiệp âm nhạc của Văn Cao được chia làm hai mảng chính: tình ca và hùng ca. Ngoài ca khúc, ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa... tổ khúc giao hưởng Anh bộ đội cụ Hồ...

Tình ca

Nhạc trữ tình lãng mạn thời tiền chiến
Bìa bản nhạc Bến Xuân do nhà Tinh Hoa tái bản lần thứ ba, năm 1954

Trong giai đoạn sáng tác đầu tiên, giống như những nhạc sĩ tiền chiến khác, Văn Cao viết các nhạc phẩm trữ tình, nhưng ít ảnh hưởng bởi chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà mang nặng âm hưởng phương Đông. Từ ca khúc đầu tay Buồn tàn thu, Văn Cao đã sử dụng ngũ cung để viết về một hình ảnh quen thuộc trong nghệ thuật châu Á: người phụ nữ đan áo ngồi chờ đợi. Sau Buồn tàn thu, ông còn viết hai ca khúc khác về mùa thu là Thu cô liêuSuối mơ. Trong đó Suối mơ vốn là một đoạn của bản Trương Chi 1 được Văn Cao phát triển thêm và cùng Phạm Duy hoàn tất[27]. Bản Trương Chi nổi tiếng sau là Trương Chi 2[28].

Bên cạnh đề tài mùa thu, Văn Cao cũng viết hai ca khúc nổi tiếng khác về mùa xuân là Cung đàn xưaBến xuân. Nhạc phẩm Bến xuân có sự tham gia của Phạm Duy, nhưng về sau Văn Cao viết lại lời mới cho ca khúc này và đặt tên Đàn chim Việt. Ngay từ những ca khúc đầu tiên, Văn Cao đã giành được thành công. Buồn tàn thu được biểu diễn trên các sân khấu hát rong và trên Đài Phát thanh Sài Gòn trong những năm 1944-1945, lúc tân nhạc còn mới phôi thai nên trở nên phổ biến. Suối mơ, Bến xuân được Phạm Duy đánh giá là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam[24].

Nhưng hai tình khúc của Văn Cao được đánh giá cao hơn cả là Thiên ThaiTrương Chi[24]. Bản Thiên Thai được nhà xuất bản Tinh Hoa ở Huế in năm 1944, Văn Cao tự nhận mình là "Người sông Ngự", ghi: "Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người sông Ngự đã lạc mất cảm xúc rồi!". Lời bài hát được đề là của Văn Cao, Hoàng Thoái và Phạm Duy cho rằng Hoàng Thoái là bí danh của Đỗ Hữu Ích, một người bạn của Văn Cao[24]. Sử dụng ngũ cung để viết về một câu chuyện cổ, Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc, vừa mang tính trường ca, vừa mang tính nhạc cảnh. Năm 2001, khi phim Người Mỹ trầm lặng được thực hiện, Thiên Thai được sử dụng làm nhạc nền của bộ phim. Giống như Thiên Thai, Trương Chi cũng dựa trên tích chuyện cổ nhưng không phải là một truyện ca mà manh tính tự sự. Ca khúc này còn một đoạn lời nữa mà các ca sĩ thưởng không trình diễn: Từ ngày trăng mơ nước in thành thơ, Lạc loài hương thu thoáng vương đường tơ.... Hình ảnh Trương Chi trong bài hát cũng thường được so sách với hình ảnh của chính Văn Cao.

Mùa xuân đầu tiên, nhạc phẩm cuối cùng đi vào lòng công chúng

Những bản hùng ca đặt nền móng cho dòng nhạc cách mạng Việt Nam

Xem thêm: Tiến quân ca

Ngay từ khi còn trong nhóm Đồng VọngHải Phòng, Văn Cao đã viết các ca khúc hướng đạo khoẻ khoắn. Cũng giống như các nhạc sĩ tiến chiến khác, Văn Cao sử dụng đề tài lịch sử để thể hiện tình ái quốc trong Gò Đống Đa, Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang... Ngoài Tiến quân ca, ông còn sáng tác các hành khúc khác như Tiến về Hà Nội, Thăng Long hành khúc ca. Tham gia Việt Minh, Văn Cao sáng tác các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam...

Năm 1947, sau chiến thắng sông Lô, Văn Cao viết Trường ca Sông Lô, ca khúc ghi dấu ấn trong lịch sử tân nhạc. Phạm Duy viết: "Đó là tác phẩm vĩ đại... chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của nhạc cổ điển Tây phương... Bài này đánh dấu sự trưởng thành của Tân nhạc". Cũng theo ý kiến của Phạm Duy, Trường ca sông Lô phải là đỉnh cao nhất của nhạc kháng chiến nói riêng, của tân nhạc Việt Nam nói chung và Văn Cao là "cha đẻ" của hùng ca, trường ca Việt Nam[29].

Sau năm 1954, các ca khúc của Văn Cao, trừ Tiến quân ca, không được trình diễn ở miền Bắc. Nhưng ở miền Nam, các ca sĩ hàng đầu của Sài gòn như Thái Thanh, Khánh Ly, Hà Thành vẫn trình diễn và ghi âm nhạc phẩm của Văn Cao. Ca khúc Không quân Việt Nam được sử dụng làm bài hát chính thức của Không lực Việt Nam Cộng hòa mặc dù chưa được phép của tác giả.

Những sáng tác cho khí nhạc
Đoạn viết này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó.

Thơ ca

Đoạn viết này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó.

Thơ tiền chiến

Đoạn viết này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó.

Thơ kháng chiến (1946–56) với trường ca Những người trên cửa biển

Đoạn viết này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó.

Thơ sáng tác sau biến cố Nhân Văn - Giai Phẩm

Đoạn viết này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó.

Hội họa

Cùng với Thái Bá Vân, Tạ Tỵ là một trong số ít những người bạn thân quen có hiểu biết sâu về tài năng hội họa của Văn Cao. Trong hồi ký của ông, Tạ Tỵ nhắc lại quãng thời gian đầu khi Văn Cao đến với hội họa: “Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó.”[30]

Một điều không may mắn là do nhiều lý do (như trách nhiệm của những người lưu giữ và điều kiện bảo quản hạn chế trong nhiều năm chiến tranh ở Việt Nam) mà danh mục các sáng tác trong sự nghiệp hội họa của Văn Cao đã không được liệt kê chi tiết như các tác phẩm âm nhạc và thơ của ông. Bởi vậy nhiều người muốn tìm hiểu về tài năng hội họa của Văn Cao không có mấy điều kiện tiếp xúc trực tiếp với những sáng tạo hội họa của Văn Cao, và hầu như chỉ có thể căn cứ vào những ý kiến phê bình của các bạn văn nghệ đương thời của ông như Tạ Tỵ và Thái Bá Vân.

Tính dự báo trong những sáng tác của Văn Cao

Nhiều người nghiên cứu sâu về Văn Cao (trong đó có bạn vong niên của ông là nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Kha và con trai trưởng của Văn Cao là họa sĩ Văn Thao) thường nhắc tới khả năng đưa ra những tiên tri hay dự đoán đến mức chính xác đáng kinh ngạc trong những sáng tác âm nhạc của ông. Nhiều sự kiện đã xảy ra trong các tác phẩm của Văn Cao trước khi chúng được ghi nhận trong thực tế lịch sử Việt Nam thế kỷ ông đã sống.[31] Một số tác phẩm điển hình là Không quân Việt Nam và Tiến về Hà Nội.[32]

Các giọng ca thể hiện thành công

Đoạn viết này đang còn trống. Bạn có thể giúp đỡ bằng cách phát triển nó.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Văn_Cao http://www.phamduy2010.com/nhacthuat/gauthier/chuo... http://trannhuong.com/tin-tuc-14892/van-cao-mot-th... http://vanhaiphong.com/ly-luan-phe-binh/226-nha-th... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb123030100 http://data.bnf.fr/ark:/12148/cb123030100 http://www.idref.fr/118198777 http://vi.rfi.fr/tong-hop/20100411-nhan-van-giai-p... http://id.loc.gov/authorities/names/n94077885 http://d-nb.info/gnd/129018961 http://www.tanvien.net/Tuong_niem/why_tqc.html